Luật sư tư vấn tình huống tranh chấp bất động sản khi ly hôn
Dưới đây là tư vấn của Luật sư DFC về tình huống tranh chấp bất động sản khi ly hôn.
Hỏi: Chào Luật sư, tôi tên P.T.H, quê ở Thái Bình. Tôi lấy vợ năm 2008. Năm 2010, gia đình vợ tôi có chia thừa kế là mảnh ruộng và chúng tôi đã canh tác trên mảnh ruộng này. Năm 2012, ruộng vào quy hoạch nên vợ chồng tôi được đền bù một số tiền và chúng tôi đã dùng số tiền này để mua lại 01 nền đất được phân lô bán lại cho những người có đất bị quy hoạch như chúng tôi. Tuy nhiên lúc làm sổ đỏ thì vợ tôi đã đứng tên một mình trên sổ. Sổ được làm vào năm 2014. Vợ chồng tôi sống hạnh phúc từ 2008 đến 2018 thì bắt đầu có trục trặc và chúng tôi muốn ly hôn. Khi vợ chồng tranh chấp về tài sản thì chính quyền xã đã xác nhận số tiền mua đất này là tài sản riêng của vợ tôi. Như vậy tôi muốn hỏi khi ly hôn, tôi có được chia tài sản là phần đất nền này không? Mong Luật sư giúp tôi.
Trả lời: Chào anh, cảm ơn anh đã gửi câu hỏi về cho Luật sư DFC. Về vấn đề của anh, Luật sư DFC xin được tư vấn như sau.
Vì thông tin anh đưa ra vẫn còn nhiều điểm chưa rõ nên Luật sư DFC sẽ chia làm 2 trường hợp.
Trường hợp 1: Gia đình vợ anh chia thừa kế riêng cho vợ
Trường hợp này có thể hiều là khi chia thừa kế có ghi rõ tài sản chia thừa kế này chỉ chia riêng cho vợ của anh. Nếu vậy thì theo Khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân gia đình quy định đây là tài sản riêng của vợ anh.
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Như vậy, khi xác định là thừa kế riêng và giao dịch mua bán đất nền sau này được thực hiện chỉ bằng số tiền bồi thường đất mà không có thêm tiền nào khác thì xác nhận tài sản này thuộc quyền sở hữu của mình vợ anh. Do đó việc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã cấp là đúng quy định pháp luật và giấy xác nhận này có giá trị pháp lý.
Quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật hôn nhân gia đình khi ly hôn, "quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó". Như vậy, khi ly hôn, anh sẽ không được hưởng quyền sử dụng đối với nền đất này.
Trường hợp 2: Gia đình vợ anh chia thừa kế chung cho cả hai vợ chồng
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
"Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng."
Do vợ chồng anh được thừa kế chung nên quyền sử dụng mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng anh. Vì vậy, nền đất được mua bằng số tiền được Nhà nước bồi thường cũng là tài sản chung của vợ chồng anh. Do đó, việc vợ anh đứng tên một mình trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của anh và việc chính quyền địa phương ký giấy xác nhận vợ anh dùng tài sản riêng để mua nền đất là trái với quy định pháp luật nên anh có thể gửi đơn đến văn phòng đăng ký đất đai để yêu cầu cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và làm đơn khiếu nại đến chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để xem xét lại về việc ký giấy trên. Trong trường hợp này, nền đất là tài sản chung của cả hai vợ chồng anh nên khi ly hôn quyền sử dụng đất sẽ được chia theo quy định của pháp luật.
Trên đây là tư vấn của Luật sư DFC về vấn đề của anh. Để rõ hơn anh có thể gọi điện đến tổng đài 0913.348.538, cung cấp thêm thông tin chi tiết để được tư vấn hoàn toàn miễn phí.