Quyền sử dụng đất hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung hay riêng

Dưới đây là tư vấn của Luật sư DFC về trường hợp quyền sử dụng đất hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung hay tài sản riêng?

Khách hàng: Chào Luật sư. Tôi và chồng tôi kết hôn năm 2010. Năm 2015, chồng tôi có mua một mảnh đất của bố mẹ chồng từ số tiền tích góp được của hai vợ chồng. Sau đó, mảnh đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chồng tôi. Do mâu thuẫn trong gia đình, chúng tôi nộp đơn ly hôn và được Tòa giải quyết cho ly hôn nhưng không yêu cầu phân chia tài sản. Luật sư tư vấn giúp tôi: Theo quy định pháp luật thì mảnh đất trên là tài sản chung hay tài sản riêng? Nay chồng tôi muốn bán mảnh đất trên thì có toàn quyền quyết định hay không ? 

Công ty Luật DFC: Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi về cho Luật sư DFC. Sau đây là nội dung tư vấn của Luật Sư cho các câu hỏi của chị theo quy định của pháp luật mới nhất năm 2021.

1. Căn cứ pháp lý

- Luật Hôn nhân gia đình năm 2014

2. Nội dung tư vấn của Luật sư

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014 Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng

Theo thông tin chị cung cấp mảnh đất mà vợ chồng chị có được là nhận chuyển nhượng từ bố mẹ chồng. Vợ chồng chị mua bằng số tiền hai vợ chồng tiết kiệm, tích góp được trong quá trình chung sống với nhau. Do mảnh đất được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân cho nên đây là tài sản chung của hai vợ chồng. Hai vợ chồng chị có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt mảnh đất trên.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì “trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Việc chỉ có chồng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể là do hai vợ chồng chị đã thỏa thuận đại diện đứng tên. Như vậy, việc chị không có tên trên giấy chứng nhận nhưng về nguồn gốc hình thành tài sản thì có công sức đóng góp của chị. Nếu chồng chị cho rằng đây là tài sản riêng của chị thì phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh. Trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung của hai vợ chồng. Vì thế, liên quan đến việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên phải có được sự đồng ý của chị. 

Bởi vì, hai người đã ly hôn không yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung. Cách tốt nhất bây giờ là vợ chồng chị nên thỏa thuận phân chia tài sản chung. Trường hợp không phân chia được thì yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và phân chia theo quy định. Về mặt quy định pháp luật, quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân sẽ chia đôi nhưng Tòa án sẽ căn cứ và các điều kiện sau để đưa ra quyết định hợp lý cho cả hai vợ chồng như: Hoàn cảnh gia đình của hai bên, mức độ đóng góp và yếu tố lỗi dẫn tới ly hôn của cả vợ chồng…

Hi vọng bài viết hữu ích cho trường hợp của chị. Để được tư vấn trực tiếp từ Luật sư, vui lòng liên hệ tới số điện thoại 0913.348.538 để được tư vấn chính xác nhất. 

 

Tin liên quan